Trùng Dương – Đổng Trinh

 

Song: 重阳 – chóng yáng – Trùng Dương
Singger: 董贞 – dong zhen – Đổng Trinh
Download: MP3 (full) | VCLIP

东篱把酒黄昏后有暗香盈袖

dōng lí bǎ jiǔ huáng hūn hòu yǒu àn xiāng yíng xiù

đông ly bả tửu hoàng hôn hậu hữu ám hương doanh tụ

Rào đông nâng chén hoàng hôn phủ, trầm hương vương tay áo

醉花荫莫道不销魂

zuì huā yìn mò dào bù xiāo hún

túy hoa âm mạc đạo bất tiêu hồn

Đọc “Túy Hoa Âm” đừng nói không tiêu hồn

帘卷西风人比黄花瘦

lián juǎn xī fēng rén bǐ huáng huā shòu

liêm quyển tây phong nhân tỉ hoàng hoa sấu

Màn cuốn gió tây, người như hoàng hoa xác xơ

曾记否隔烟雨话红楼

céng jì fǒu gé yān yǔ huà hóng lóu

tằng ký phủ cách yên vũ thoại hồng lâu

Còn nhớ không mưa ngăn cách chuyện hồng lâu

往事付水东流

wǎng shì fù shuǐ dōng liú

vãng sự phó thủy đông lưu

Chuyện xưa như nước chảy về đông

月匆匆

yuè cōng cōng

nguyệt thông thông

Trăng vội vàng

怎奈何悲欢离合谁人能参透

zěn nài hé bēi huān lí hé shéi rén néng cān tòu

chẩm nại hà bi hoan ly hợp thùy nhân năng tham thấu

Tiếc thay chuyện buồn vui ly hợp nào ai hiểu thấu

邀明月把酒送清风

yāo míng yuè bǎ jiǔ sòng qīng fēng

yêu minh nguyệt bả tửu tống thanh phong

Nâng chén cùng minh nguyệt tiễn gió xuân

怨酒浓凭栏醉芙蓉

yuàn jiǔ nóng píng lán zuì fú róng

oán tửu nùng bằng lan túy phù dung

Tựa lan can, say rượu nồng, mê đắm phù dung

暮秋时候望乡台回眸

mù qiū shí hòu wàng xiāng tái huí móu

mộ thu thì hậu vọng hương đài hồi mâu

Thời khắc cuối thu quay đầu nhìn cố hương

那日初相逢

nà rì chū xiāng féng

na nhật sơ tương phùng

Như ngày đầu tương ngộ

笑语如昨但看朱花红

xiào yǔ rú zuó dàn kàn zhū huā hóng

tiếu ngữ như tạc đãn khán chu hoa hồng

Chuyện vui như mới hôm qua nhưng đỏ thắm cánh hồng hoa

重阳约仿若古道中

chóng yáng yuē fǎng ruò gǔ dào zhōng

trùng dương ước phảng nhược cổ đạo trung

Ước hẹn Trùng Dương phảng phất trong phong tục cổ

你执手欲把古琴奏

nǐ zhí shǒu yù bǎ gǔ qín zòu

nhĩ chấp thủ dục bả cổ cầm tấu

Người cầm cổ cầm tấu

琴意悠悠弹指已深秋

qín yì yōu yōu tán zhǐ yǐ shēn qiū

cầm ý du du đạn chỉ dĩ thâm thu

Cầm ý du dương chớp mắt đã cuối thu

离歌唱不休

lí gē chàng bù xiū

ly ca xướng bất hưu

Khúc ly ca xướng chưa tận

曲终人依旧如南柯一梦

qū zhōng rén yī jiù rú nán kē yī mèng

khúc chung nhân y cựu như nam kha nhất mộng

Khúc nhạc tàn, người vẫn thế như giấc mộng Nam Kha

 

 

晚风过烛火隐隐触动

wǎn fēng guò zhú huǒ yǐn yǐn chù dòng

vãn phong quá chúc hỏa ẩn ẩn xúc động

Gió đêm thổi, ánh nến khẽ đung đưa

庭院夜雨深锁

tíng yuàn yè yǔ shēn suǒ 

đình viện dạ vũ thâm tỏa

Ngoài sân mưa đêm rả rích

话懵懂

huà měng dǒng

thoại mộng đổng

Nói mông lung

却道是自古人生长恨水长东

què dào shì zì gǔ rén shēng zhǎng hèn shuǐ cháng dōng

khước đạo thị tự cổ nhân sinh trường hận thủy trường đông

Đừng nói tự cổ nhân sinh trường hận, thủy trường đông

旧时歌他乡谁人吟

jiù shí gē tā xiāng shéi rén yín

cựu thì ca tha hương thùy nhân ngâm

Khúc hát tha hương xưa người nào hát

我抚琴可笑无人听

wǒ fǔ qín kě xiào wú rén tīng

ngã phủ cầm khả tiếu vô nhân thính

Ta tấu một khúc nhạc vui chẳng ai nghe

暗香初醒秋风画冷屏

àn xiāng chū xǐng qiū fēng huà lěng píng

ám hương sơ tỉnh thu phong họa lãnh bình

Tỉnh mộng trầm hương, cảnh thu trở lạnh

关山月藏影

guān shān yuè cáng yǐng

quan sơn nguyệt tàng ảnh

Quan Sơn Nguyệt tàng ẩn

茱萸插遍人却自飘零

zhū yú chā biàn rén què zì piāo líng

thù du sáp biến nhân khước tự phiêu linh

Cài nhành thù du tự phiêu linh.

旧书信归鸿可曾递

jiù shū xìn guī hóng kě céng dì

cựu thư tín quy hồng khả tằng đệ

Thư cũ trả về nhạn từng giao

无音讯寥寥归无期

wú yīn xùn liáo liáo guī wú qī

vô âm tấn liêu liêu quy vô kỳ

Không tin tức lâu lâu lại trả về

旧时景喃喃话心语

jiù shí jǐng nán nán huà xīn yǔ

cựu thì cảnh nam nam thoại tâm ngữ

Cảnh vật xưa, khe khẽ thốt lời trong lòng

同饮谱新曲黄花伴风清

tóng yǐn pǔ xīn qū huáng huā bàn fēng qīng

đồng ẩm phổ tân khúc hoàng hoa bạn phong thanh

Cùng phổ một khúc hoàng hoa bầu bạn cùng gió xuân

何日共月明

hé rì gòng yuè míng

hà nhật cộng nguyệt minh

Vì sao nhật nguyệt sáng soi.

 

Chú thích:

1.    Túy hoa âm: tên 1 bài thơ của Lý Thanh Chiếu đời Nam Tống. 3 câu đầu của bài hát được trích từ bài thơ này.

2.    Tiết Trùng Dương hay còn gọi là Trùng Cửu (mùng 9/9 âm lịch): là ngày đuổi tà diệt ác. Theo phong tục của người Trung Quốc vào ngày này người ta sẽ leo lên núi cao, cài hoa thù du lên người, uống rượu hoàng hoa đến tối mới trở về để tránh điều xui xẻo vận nạn. Thù du biến sáp nhân là chỉ hình ảnh người ta cài hoa thù du lên người. Về phong tục này có thể thấy khi coi phim Hoàng Kim Giáp nhé.

3.    Giấc mộng Nam Kha – thành ngữ tiếng Hán: dùng để chỉ những mộng tưởng không thể nào thực hiện được. Điển tích này xuất phát từ sách “Nam Kha ký thuật” của Lý Công Tá đời Đường (Trung Quốc). Trong sách có kể truyện Thuần Vu Phần nằm mộng thấy mình đi lạc vào một nước tên là Hòe An, được vua Hòe An cho vào bái yết rồi gả con gái, cho làm phò mã và đưa ra quận Nam Kha làm quan Thái thú, cai trị cả một vùng rộng lớn, vinh hoa phú quý tột bậc. Khi tỉnh dậy, Thuần thấy mình nằm dưới gốc cây hòe có một chỉ về phía nam, bị một đàn kiến bu quanh.
Thuần nhớ lại giấc mộng của mình, so sánh với thực tế chung quanh, thấy rằng: Cây Hòe là nước Hòe An, cành cây phía nam là đất Nam Kha. Từ điển tích này, người ta rút ra các thành ngữ: Giấc Nam Kha, Mộng Nam Kha, Giấc Hòe, để chỉ những gì tốt đẹp của cuộc đời thường ngắn ngủi, công danh phú quý như giấc chiêm bao.

4.    Nhân sinh trường hận thủy trường đông: con người thì luôn có thù hận oán ghét, nước thì luôn chảy về đông

5.    Quan Sơn Nguyệt: tên 1 bài thơ của Lý Bạch, tên 1 bài nhạc phủ (nhạc dân gian xưa của Trung Quốc thổi bằng hoành xuy hay còn gọi là tiêu) dùng đễ diễn tả nỗi đau ly biệt. Quan Sơn Nguyệt nói về vùng Thiên Sơn biên ải. (nghe bài này bằng đàng nhị hồ thì click đây )

6.    Hoàng hoa: là hoa cúc vàng

7.    Đông ly: ly là bờ rào làm bằng tre, đông ly là bờ rào tre ở phía đông

8.    Tiêu hồn: lạc mất hồn, hồn tiêu tan, tan biến,

 

*******

Nguyên tác: Túy Hoa Âm (thi viện)

 

薄霧濃雲愁永晝,
瑞腦消金獸。
佳節又重陽,
玉枕紗廚,
半夜涼初透。

東籬把酒黃昏後,
有暗香盈袖。
莫道不消魂,
簾捲西風,
人比黃花瘦。

 

Bạc vụ nùng vân sầu vĩnh trú,
Thuỵ não tiêu kim thú.
Giai tiết hựu trùng dương,
Ngọc chẩm sa trù,
Bán dạ lương sơ thấu.

Đông ly bả tửu hoàng hôn hậu,
Hữu ám hương doanh tụ.
Mạc đạo bất tiêu hồn,
Liêm quyển tây phong,
Nhân tỷ hoàng hoa sấu.

 

Nguyên tác Quan Sơn Nguyệt

 

明月出天山,苍茫云海间。

长风几万里,吹度玉门关。

汉下白登道,胡窥青海湾。

由来征战地,不见有人还。

戍客望边邑,思归多苦颜。

高楼当此夜,叹息未应闲。

 

“Minh nguyệt xuất thiên sơn, thương mang vân hải gian.

Trường phong kỷ vạn lý, xuy độ ngọc môn quan.

Hán hạ bạch đăng đạo, hồ khuy thanh hải loan.

Do lai chinh chiến địa, bất kiến hữu nhân hoàn.

Thú khách vọng biên ấp, tư quy đa khổ nhan.

Cao lâu đương thử dạ, thán tức vị ứng nhàn.”

 

Nghĩa của bài từ:

Thiên Sơn trăng sáng, biển trời mênh mông. Xa nghìn vạn lý, ở ải Ngọc Môn Quan nay là phía tây thành phố Đôn Hoàng tỉnh Cam Túc, Trung Quốc. Hán Cao Tổ xuất binh chinh phạt hung nô, thổ phiên để mở rộng bờ cõi. Qua nhiều năm chinh chiến rất ít binh sĩ may mắn còn sống sót mà trở về. Binh sĩ trấn biên vọng nhìn về biên thành mà gương mặt khắc khoải nổi nhớ nhà, nhớ cố hương. Giữa đêm trăng sáng, các thê tử nằm trên lầu cao ngắm trăng nhớ về phu quân càng làm tăng thêm nỗi nhớ nhung ai oán, nỗi nhớ người thân ở phương xa, biết khi nào thì người thân có thể trút bỏ lớp áo quân nhân kia, tẩy trần mà trở về.

Tham khảo và dịch từ baidu

Bài dịch thứ 131, bài này  đầu tiên được share bản full tại VN ở quan4.net, vui lòng ghi rõ nguồn khi đem đi nơi khác.

© 2011, nicky. All rights reserved.

9 comments

Leave a Reply

Your email address will not be published.